Tam giác phát triển CLV: Điển hình hợp tác, hiệu quả, thực chất

Hơn 20 năm triển khai các thỏa thuận hợp tác, khu vực Tam giác phát triển CLV luôn giữ được vai trò là cơ chế gắn kết ba nước Đông Dương, duy trì môi trường hòa bình, ổn định tại khu vực 13 tỉnh chiến lược biên giới và được đánh giá là một điển hình hợp tác thành công, hiệu quả và thực chất.

Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Bờ Y. (Nguồn: Yomaps)

Khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Bờ Y. (Nguồn: Yomaps)

Tam giác phát triển Campuchia-Lào-Việt Nam (TGPT CLV) là khu vực ngã ba biên giới ba nước, được thành lập từ năm 1999, nhằm tối đa hóa tiềm năng, thế mạnh, các nguồn lực của mỗi nước để đạt mục tiêu tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, tăng cường đoàn kết và hợp tác, rút ngắn khoảng cách phát triển so với các vùng khác của mỗi nước, đảm bảo an ninh, ổn định chính trị, xóa đói giảm nghèo và phát triển kinh tế-xã hội trong khu vực.

Đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu của nhân dân

Mười ba tỉnh thuộc ba quốc gia, dù mỗi địa phương đều sở hữu đặc điểm riêng, nhưng có nhiều nét tương đồng về điều kiện tự nhiên, kinh tế và xã hội. Phần lớn nằm trong lưu vực của hệ thống sông Mekong, kéo dài từ các cao nguyên thuộc dãy Trường Sơn đến cao nguyên Rattanak Kiri và một phần cao nguyên Boloven, nằm trên khu vực biên giới của ba nước. Các tỉnh thuộc TGPT CLV hầu như đều có đường biên giới chung từng đôi một và đã hình thành các cặp cửa khẩu nên đã có sẵn tiềm năng hợp tác.

Trong đó, hợp tác TGPT CLV tập trung cụ thể vào các lĩnh vực: an ninh-đối ngoại, giao thông vận tải, công nghiệp, nông nghiệp, thương mại, đầu tư, các lĩnh vực xã hội và bảo vệ môi trường… Vì thế, bên cạnh những điều kiện thiên nhiên thuận lợi việc, những cơ chế chính sách của cả ba nước, nhằm củng cố việc hình thành Khu vực TGPT CLV đã góp phần giúp đạt được mục tiêu đề ra, chung tay xây dựng đường biên giới hòa bình.

Những dấu ấn nổi bật là, Bản ghi nhớ về việc xây dựng 12 chính sách ưu đãi đặc biệt cho Khu vực TGPT CLV năm 2008; quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế-xã hội khu vực đến năm 2010; thỏa thuận hợp tác về quản lý và điều hành trang thông tin điện tử Khu vực TGPT CLV năm 2011; bản ghi nhớ giữa Chính phủ ba nước về vận tải đường bộ năm 2013; Hiệp định xúc tiến và tạo thuận lợi cho thương mại trong Khu vực TGPT CLV 2016; Kế hoạch hành động kết nối nền kinh tế ba nước Campuchia-Lào-Việt Nam đến năm 2030 thành một cực tăng trưởng của ASEAN; Tuyên bố chung 11 Hội nghị cấp cao giữa Thủ tướng ba nước CLV và Biên bản 12 Hội nghị Ủy ban điều phối chung.

Trong khu vực cũng hình thành và phát triển những quan hệ hợp tác rộng hơn, ra ngoài phạm vi các cặp tỉnh có chung đường biên giới. Từng địa phương chủ động trong việc đưa hợp tác trong TGPT CLV kết nối với bên ngoài để tìm kiếm cơ hội, bước đầu thu hút sự quan tâm của một số nhà tài trợ quốc tế như Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), Quỹ Hội nhập Nhật Bản-ASEAN…

Đề ra định hướng hợp tác trong giai đoạn tiếp theo, tại Hội nghị cấp cao Khu vực TGPT CLV lần thứ 11 theo hình thức trực tuyến (12/2020), Lãnh đạo ba nước đã khẳng định quyết tâm xây dựng khu vực TGPT CLV hòa bình, ổn định, phát triển bền vững và thịnh vượng thông qua tiếp tục mở rộng, nâng cao hiệu quả của hợp tác, thúc đẩy tiến trình hội nhập, tái cơ cấu nền kinh tế, cải thiện môi trường kinh doanh và phối hợp chặt chẽ với các nước thành viên ASEAN khác để hiện thực hóa Tầm nhìn Cộng đồng ASEAN 2025.

Ba quốc gia cam kết đẩy mạnh hợp tác trong bảo vệ môi trường, quản lý và sử dụng bền vững nguồn nước và tài nguyên rừng.

Trên cơ sở đó, Ủy ban điều phối chung tích cực triển khai một số nội dung cụ thể như: xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội khu vực giai đoạn 2021-2030 trên cơ sở đúc kết kinh nghiệm từ triển khai Quy hoạch giai đoạn 10 năm vừa qua; Xây dựng các chương trình, kế hoạch và dự án cụ thể để thực hiện Kế hoạch kết nối ba nền kinh tế Campuchia-Lào-Việt Nam đến 2030; thực hiện hiệu quả Kế hoạch phát triển du lịch khu vực TGPT CLV giai đoạn 2020-2025 tầm nhìn 2030, nâng cao hiểu biết về mô hình “Ba quốc gia, một điểm đến” và thúc đẩy du lịch bền vững; xây dựng chương trình hoạt động cụ thể để triển khai Kế hoạch phát triển ngành công nghiệp cao su bền vững; tăng cường các hoạt động trao đổi sinh viên, giảng viên, nghiên cứu viên; các chương trình đào tạo nghề và giao lưu nhân dân; phối hợp cùng các đối tác phát triển, các tổ chức tài chính quốc tế thực hiện các kế hoạch đã được phê duyệt.

Vai trò chủ động của Việt Nam

Khởi đầu chỉ là những ý tưởng, dần được phát triển thành những chiến lược, kế hoạch cho đến những dự án cụ thể, thực chất. Hợp tác TGPT CLV đến nay dần đáp ứng nguyện vọng và nhu cầu chung của nhân dân ba nước, phát triển kinh tế-xã hội và ngày một nâng cao đời sống của nhân dân trong khu vực. Cơ sở hạ tầng, các quy định để nhân dân tiếp cận được nguồn vốn, giáo dục, dịch vụ y tế, viễn thông, dịch vụ có nhiều thay đổi tích cực. Những kết quả này không tách rời sự ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau của nhân dân.

TGPT CLV có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng với cả ba nước về chính trị, an ninh, quốc phòng, kinh tế và môi trường sinh thái. Tiếp tục định hướng phát triển hợp tác trong tình hình mới, Hội nghị cấp cao lần thứ 11 (12/2020) lần đầu theo hình thức trực tuyến (do dịch Covid-19) đã chỉ ra một số phương hướng lớn, như: mở rộng thực chất quy mô hợp tác, tạo gắn kết hơn giữa khu vực TGPT CLV với kinh tế cả nước và phát huy tốt hơn tiềm năng của ba nước; triển khai mạnh mẽ Kế hoạch hành động kết nối ba nền kinh tế đến năm 2030, gắn với các chương trình, kế hoạch hợp tác tiểu vùng và ASEAN để tạo cộng hưởng và gia tăng hiệu quả;

Xây dựng môi trường thông thoáng, thuận lợi cho thương mại, đầu tư và du lịch thông qua triển khai nghiêm túc các hiệp định, thỏa thuận đã có, xây dựng các thỏa thuận mới giúp khai thông khó khăn, vướng mắc của doanh nghiệp; Đẩy mạnh tạo thuận lợi lưu thông hàng hóa qua các cặp cửa khẩu biên giới; tạo điều kiện, cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích doanh nghiệp ba nước đầu tư, ổn định kinh doanh lâu dài tại khu vực CLV; Bảo đảm nguồn cung lao động lành nghề, chất lượng cho các doanh nghiệp đầu tư vào khu vực; Tăng cường hợp tác xây dựng tuyến biên giới CLV hòa bình, hữu nghị và phát triển toàn diện; Mở rộng và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác nhằm huy động thêm nguồn lực cho phát triển tại khu vực.

Trong định hướng trên, Việt Nam tiếp tục không chỉ thể hiện là một bộ phận cấu thành, mà còn là nền kinh tế nổi bật trong khu vực. Bên cạnh việc là một trong những nước dẫn đầu về đầu tư tại Lào và Campuchia thông qua nhiều dự án trong lĩnh vực nông nghiệp, khai khoáng, trồng và khai thác cao su… Việt Nam có vai trò chủ động dẫn dắt, tích cực thúc đẩy hợp tác trong cơ chế, coi trọng tình nghĩa, truyền thống hợp tác giữa nhân dân ba nước anh em.

Kinh tế khu vực TGPT của Việt Nam tăng trưởng tích cực. Năm 2020 do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm nhiều so với các năm trước, nhưng tính chung cả thời kỳ 10 năm 2011-2020, tốc độ đạt 6,36%/năm.

Mặc dù vậy, nhìn chung kết quả đạt được vẫn còn hạn chế và chưa đáp ứng được kỳ vọng đặt ra. Mục tiêu này đòi hỏi ba nước Campuchia-Lào-Việt Nam cần phải có những giải pháp căn cơ và toàn diện hơn để tạo được bước đột phá trong triển khai các thỏa thuận hợp tác trong khu vực TGPT CLV, đáp ứng nhu cầu phát triển của ba nước trong tình hình mới.

TGPT CLV gồm 13 tỉnh khu vực biên giới chung giữa ba nước là Mondulkiri, Ratanakiri, Stung Treng, Kratíe (Campuchia); Attapu, Salavan, Sekong, Champasak (Lào); Kon Tum, Gia Lai, Đắk Lắk, Đắk Nông và Bình Phước (Việt Nam).

Tổng diện tích tự nhiên của TGPT CLV là 144,3 nghìn km2, chiếm 19,3% về diện tích tự nhiên ba nước; dân số khu vực năm 2019 khoảng 7 triệu người, chiếm 6,1% tổng dân số của cả ba nước (mật độ dân số 45 người/km2).

Minh Anh

Nguồn TG&VN: https://baoquocte.vn/tam-giac-phat-trien-clv-dien-hinh-hop-tac-hieu-qua-thuc-chat-223408.html